Trung Y xem bệnh như thế nào?

Lời tựa sách Y kinh tâm ngộ ký – Nhiệm Chi Đường

Dịch và chú thích: Phạm Duy Đức

Để xây một tòa nhà thì cần những kiến thức nào? Thầy tôi nói, thứ nhất cần bản thiết kế chi tiết một cách khoa học, thứ hai cần có tư duy mỹ thuật một cách nghệ thuật, thứ ba cần có năng lực chuyển hóa từ lý luận thành thực tiễn, có thể áp dụng lên thực địa, biến ý tưởng thành hiện thực một cách chắc chắn. Học Trung y cũng như vậy.

Các bạn có thể sẽ hỏi, chẳng phải học Trung y thì cần nhân tài khoa học xã hội (văn khoa) sao? Dụng văn để thông thạo y, thành công quá nửa?

Thầy tôi nói, học Trung y càng cần năng lực suy luận logic của khoa học tự nhiên (lý khoa), đương nhiên cũng không thể thiếu tích lũy kiến thức khoa học xã hội. Không có nền tảng kiến thức khoa học xã hội thì rất nhiều sách y không thể hiểu được, lại còn rất nhiều tư duy “thủ tượng[1]” kỳ diệu sẽ không thể triển khai ý tưởng ra được. Nếu không có tư duy logic của khoa học tự nhiên, đến lúc muốn đem y lý ứng dụng trên lâm sàng thì nhận ra trong tay tuy có ngàn phương mà diệu phương khó viết thay!

Do đó văn lý phải kiêm thông mới có thể thành y gia. Không biết “thức văn đoán từ”[2], khó mà làm y, không biết “cùng lý thông biến”[3] càng khó làm y. Do vậy một y gia xuất sắc bắt buộc phải dung hòa lý luận và thực tế, phải tinh thông văn học, phải suy luận cách chặt chẽ. Nếu thiếu bất kỳ yếu tố nào, đều rất khó để thực sự phát triển. Đây là lý do vì sao người học y thì nhiều mà người thành tựu lại ít.

Trước nay sở trường của thầy tôi thiên về khoa học tự nhiên, người khác phải dùng một tiếng để hoàn thành một bài toán logic, thầy chỉ cần nửa tiếng, mặt khác lại được điểm số cao nhất.

Thầy tôi nói, đây chỉ là chuyện xưa việc cũ, kinh nghiệm của hai mươi năm trước rồi, nhưng thầy vẫn nhớ lại y như cũ, vẫn sung sướng như xưa. Thầy thấy những bài toán logic này đều rất hưng phấn, vì nó chứa đầy tính thách thức tư duy suy luận logic. Mỗi lần giải được những  câu chứng minh trong đó cũng giống như leo lên đỉnh một ngọn núi cao vậy, cho ta cảm giác thành công. Do đó với toán logic, thầy trước nay đều thích giải bài khó. Thói quen này hình thành làm cho thầy khi gặp bệnh khó trên lâm sàng liền nhen lên tâm lý thách đấu, nhất định phải xử lý được vấn đề.

Sau đó thầy tôi giảng cho mọi người hình học tam giác đơn giản nhất cho đến hình học lập thể phức tạp.

Chẳng phải đang học Trung y sao? Lại giảng tới toán học vậy?

Thầy tôi nói, y dịch tương thông, “Kinh Dịch” giảng về tượng số học, trong hơn một năm qua, tư duy suy luận thủ tượng của các bạn trong đã dần dần được nâng cao rồi, nhưng cách suy diễn logic chặt chẽ, tư duy toán học vẫn còn chưa đủ. Mà muốn có hiệu quả trên lâm sàng, bắt buộc phải có cách tư duy này.

Ví như hình tam giác, tổng ba góc bằng 180 độ, đây là một định lý. Nếu bạn biết hai góc cộng lại bằng 130 độ thì có thể suy ra góc thứ ba bằng 50 độ không?

Từ dữ liệu đã biết để suy ra kết quả, sau đó thêm chứng minh, đó là cách tư duy logic một cách chặt chẽ.

Trên lâm sàng, khi các bạn nhìn thấy chứng chảy nước mũi trong, làm thế nào để suy luận ra pháp trị thông tuyên lý phế?

Dùng thông tuyên lý phế để điều trị chảy nước mũi trong là thành quả của kinh nghiệm suy luận, nhưng điều các bạn cần biết là thành quả này làm sao mà có được. Đầu tiên, các bạn cần đi tìm định lý, công thức. Những định lý, công thức này chính là những câu kinh văn lưu truyền trăm ngàn năm nay, đại đa số những câu kinh văn ấy thường nằm trong các tác phẩm kinh điển, như <Hoàng Đế nội kinh>, <Nạn kinh>…

Lúc này bạn tìm thấy “phế khai khiếu ở mũi”, đây là định lý thứ nhất, bạn lại tìm thấy “dương hóa khí âm thành hình”, đây là định lý thứ hai. Từ hai định lý này bạn có thể nghĩ tới nguồn gốc của chảy nước mũi trong là do trong phế có hàn, nước mũi là sản phẩm của “âm thành hình”. Nếu dương khí đầy đủ sẽ không thể biến thành nước trong mà sẽ hóa thành khí, làm vinh nhuận da lông toàn thân. Chỉ khi dương khí ở hung phế bất chấn[4] không thể hóa khí thì âm tà mới thừa lại, chảy ra ngoài thông qua mũi, nhắc nhở các bạn có hàn ở lý. Lúc này các bạn có thể chứng minh thông tuyên lý phế, dùng phương pháp ôn hóa hàn khí ở hung phế sẽ trị khỏi được chứng chảy nước mũi trong.

Khi đó các bạn kê cho bệnh nhân thuốc thành phẩm thông tuyên lý phế hoàn, bệnh nhân uống có tác dụng. Các bạn lại kê cho ngọc bình phong tán hợp quế chi thang để ôn hóa dương khí ở hung phế, bệnh nhân uống lại có tác dụng. Sau khi những suy luận đó được các bạn tự chứng minh thì lối tư duy sẽ linh hoạt mà mở rộng ra, dùng thuốc trên lâm sàng cũng từng bước cải thiện bệnh tật.

Do đó, Trung y xem bệnh như thế nào? làm sao để dạy người khác học Trung y? Vấn đề quan trọng không phải là xem học phái học thuyết của y gia nào, cũng không phải là theo học danh sư nào, mà việc đầu tiên là phải bồi dưỡng tư duy suy luận logic.

Từ rất nhiều định lý và công thức đã biết để mở ra thêm nhiều suy luận, sau đó thông qua các loại suy luận để giải quyết vấn đề cần chứng minh. Tức là trên lâm sàng cần phải công hạ được các bệnh tật khó.

Học y cũng như tu hành, phải “mạc y chỉ, pháp y chỉ, mạc dị y chỉ”[5], nghĩa là con người quý ở chỗ biết tự tham cứu lĩnh hội đạo lý, vận dụng những quy luật nguyên tắc đã biết để giải quyết mọi vấn đề ở mọi mức độ. “Tự y chỉ” nghĩa là dựa vào chính mình; “pháp y chỉ” nghĩa là tuân thủ các phép tắc, quy luật, định lý, công thức; “mạc dị y chỉ” là chớ dựa vào người khác hay những học thuyết, thậm chí chính thầy mình cũng không phải là chỗ dựa.

Phương tây có câu triết ngôn “tôi yêu thầy tôi, nhưng tôi càng yêu chân lý”[6]

Ở Trung Quốc, người thực sự tôn sư trọng đạo không phải là tôn một người nào đó, trọng một học thuật nào đó, mà là tôn trọng đạo lý quy tắc của trời đất.

Hiện nay rất nhiều người học y chỉ muốn có được những bài thuốc bí mật, những kinh nghiệm có sẵn, mà không thèm dụng tâm để suy nghĩ nghiên cứu, chiêm nghiệm những câu kinh văn, không muốn học thuộc những định lý công thức, như Hoàng đế Nội kinh. Kỳ thực, nếu bạn học thuộc những định lý công thức cơ bản này rồi nghiên cứu suy luận sâu thêm thì khi bạn đối mặt với những bệnh khó thì mạch suy luận của bạn sẽ dần dần sáng tỏ. Nếu bạn không tự phân tích mà chỉ tiếp nhận cách mơ hồ kinh nghiệm của người khác thì bạn không hề tự chứng minh, mà chỉ là học mót, đến khi tự mình ứng dụng lâm sàng thì rất khó để vận dụng được như ý.

Việc này cũng như có thầy thuốc rất giỏi dùng tễ sài hồ, dày công tôi luyện, hầu hết bệnh nhân đều có phản ứng tốt. Tuy nhiên nếu bạn không hiểu được cơ chế, cứ sao chép y nguyên mà dùng thì hiệu quả lại không rõ ràng thì bạn sẽ cảm thấy rất thất vọng.

Cũng như có người nói, tôi trọng dùng một vị xuyên khung trị đau đầu, tác dụng rất tốt; lại có người nói tôi dùng cảo bản, mạn kinh tử trị đau đầu rất tốt; có người nói tôi dùng khương hoạt, cát căn trị đầu thống tác dụng cũng vô cùng tốt; lại có người nói tôi dùng tam thất phối tế tân, tán bột, trị đầu thống, trị mọi loại đau đầu mãn tính đều có hiệu quả thần kỳ; lại có người nói tôi dùng trà xuyên khung tán gia giảm biến hoá mà trị mọi loại đau đầu; lại có người nói tôi chỉ một mình tiêu dao tán là trị được đau đầu rồi…

Trong một chốc lát mà lượng kiến thức như núi cao biển sâu ập tới, bạn sẽ rất hoang mang, mỗi kinh nghiệm lâm sàng đều rất quý, đều là đạo lý. Nhưng khi bạn thực sự đối mặt với bệnh nhân đau đầu thì bạn sẽ do dự không quyết định được. Dương như dùng cái gì cũng được, lúc bạn kê đơn rồi thì dường như cách nào cũng không được như ý. Cũng như Tôn Tư Mạo viết trong  <Đại y tinh thành> như trên đã nói, thế gian có kẻ ngu muội, đọc mấy quyển sách thuốc, ba năm đã ngẩng đầu nghênh mặt xưng dưới trời này không có bệnh nào ta không chữa được. Đợi đến khi làm lâm sàng đến ba năm thì sẽ phát hiện bệnh tật không bao giờ hoàn toàn như sách, phát sinh biến hoá từng bước từng bước rõ ràng như vậy. Lúc đó, lại bực tức mà than rằng, dưới trời này chẳng có phương thuốc nào dùng được.

Tại sao lại vậy? Bởi vì tất cả những kiến thức trong sách đều là những suy luận của người khác, bạn cần phải có quá trình tự suy luận. Chỉ cần quá trình suy diễn logic này thực hiện một cách nghiêm túc cẩn thận thì bạn mới có thể kết hợp hài hoà tri thức và thực tiễn thành một thể. Ví dụ, chúng ta cần chứng minh tại sao đau đầu không thể rời xuyên khung, nếu đây là câu hỏi hình học, câu hỏi số học của bạn, thì bạn làm thế nào để chứng minh thông qua những định lý và công thức đã biết? Chứng minh được rồi thì khi bạn dùng sẽ không thất vọng, chứng minh không được bạn cứ áp dụng đại khái thì không khác gì mua vé số, nhờ xác suất, nhờ vận may mà trúng.

Đại bộ phận các định lý, công thức, nguyên lý, quy luật của Trung Y đều ở trong <Hoàng đế Nội kinh>, do đó chúng ta nên nghiên cứu các câu kinh văn trong <Hoàng đế Nội kinh>. Đối với việc điều trị đau đầu, ta tìm ra điểm thứ nhất “đầu vi chư dương chi hội” (đầu là nơi hội tụ của dương); sau đó lại tìm ra điểm thứ hai, xuyên khung có thể đi lên đầu mặt, đi xuống huyết hải, giải uất kết ở hai bên; và điểm thứ ba, định lý “bất thông tắc thống, bất vinh tắc thống” (không thông thì đau, không vinh nhuận thì đau). Từ đó chúng ta có thể suy luận ra các cách điều trị đau đầu khác nhau.

Các bạn biết tại sao lại có các học thuyết của các y gia không? tại sao Trung Y lại có thể “trăm hoa đua nở” tại sao các đời y gia sản sinh ra vô cùng phong phú các kinh nghiệm điều trị? Tất cả đều bởi suy luận từ những nguyên lý định lý cơ bản này mà có được các kinh nghiệm điều trị bệnh tật.

Do đó với bệnh đau đầu, nếu gặp “bất thông” thì đem dương khí lên trên để thông chỗ tắc, như khương hoạt hay cát căn. Gặp “bất vinh” tạng phủ bất túc thì đem khí dẫn lên, tư dưỡng chỗ hư, như bổ trung ích khí thang. Gặp tà khí thúc biểu[7], dẫn đến kinh mạch co rút thì dùng thuốc phát tán tà khí, như khung trà điều tán. Gặp khí ở tạng phủ không điều hoà thì dùng thuốc để điều đạt khí, như tiêu dao tán. Gặp huyết uất cục bộ gây đau như châm chích thì dùng thuốc trừ khứ huyết ứ đi, như loại thuốc từ côn trùng, ngô công, toàn yết.

Như vậy sẽ làm cho đầu – nơi hội tụ của dương – có thể đạt được trạng thái “thanh dương xuất thượng khiếu, trọc âm xuất hạ khiếu, thanh thăng trọc giáng”[8]. Như vậy, bạn tuỳ ý kê đơn đều là phương thuốc hay cả, đều trực tiếp đánh vào bệnh cơ, như vậy mới là học y cách linh hoạt.

Thầy tôi nói, công việc tiếp theo của chúng ta là quá trình luyện tập “trị bệnh ngộ bệnh”, dùng những công thức định lý đã biết chỉnh lý lại, làm quen với nó, rồi suy luận để phục vụ lâm sàng. Đây gọi là “Trung y chi Chứng”[9]. Để thực sự “Chứng” có hai ý, một là chứng hậu, bạn phải biện chứng, đây là danh từ; hai là “Chứng lý”, bạn phải suy luận, đây là động từ. Do đó, “Trung y chi Chứng”, tuyệt đối không đơn giản như biện chứng luận trị, chỗ tinh tuý sâu sắc nhất của nó là “Chứng đạo”. Khi đã thực sự nhuần nhuyễn quá trình “Chứng đạo” này rồi thì mới có thể phát triển Trung y từ gốc rễ, mới có thể bồi dưỡng được nền Trung y vững mạnh.

Chúng tôi bèn hỏi thầy, làm thế nào để nắm vững được “Trung y chi Chứng”?

Thầy cười rồi nói, trị bệnh như giải toán, các bạn cho là Trung y khó học, “nán dị tương thành”[10] khó chỉ là khó ở việc các công thức định lý bạn nắm được không nhiều, khó ở việc bạn không quen với cách suy luận này. Khi nền tảng này đã kiên cố rồi thì bạn làm cho lối suy luận này được mạch lạc, như vậy bạn sẽ tự đạt được những kinh nghiệm rất quý, thực sự không cần phải chạy khắp nơi tìm thầy học đạo. Tự bạn có thể đào được những kho báu từ cổ thư. Các bạn sẽ phát hiện ra Trung y trị bệnh cũng như học sinh giải toán, có người chỉ giảng một chút là biết làm, có người thì giảng hoài cũng không làm nổi.

Do đó, việc các bạn cần làm ngay là nhớ và hiểu thật rõ những nguyên tắc điều trị trong sách cổ, biến nó thành vũ khí của mình, chuẩn bị thật tốt cho bước tiếp theo là suy luận.

Tại sao hiện nay chúng ta dùng hạnh tô ngũ bì ẩm điều trị chàm rất hiệu quả? Kết quả này là do suy luận từ công thức mà ra, quá trình này chính là như vậy. Đầu tiên bạn cần biết mệnh đề “phế chủ bì mao” và mệnh đề hai “trọc âm xuất hạ khiếu”. Do đó trên lâm sàng gặp bệnh chàm, phế mạch thượng kháng[11] cần nghĩ ngay đến trọc thuỷ không bài xuất bằng trọc đạo (tiền hậu âm) mà phát ra ở da, phải trị ở đâu đây? Trị phế. Trị như thế nào? Đem thuỷ thấp thu vào tam tiêu, thông qua bàng quang mà thải ra ngoài. Như vậy, thấp trọc bài tiết bằng tiểu tiện rồi thì không còn lan tràn ở bề mặt da nửa, tự nhiên sẽ khỏi bệnh, đây gọi là phép trị gốc.

Phép trị gốc này lại suy luận từ hai công thức Trung y rất đơn giản “phế chủ bì mao” và “trọc âm xuất hạ khiếu”. Cho dù mới học Trung y cũng biết hai công thức này, nhưng họ lại không biết suy luận như thế nào. Một khi đã biết cách suy luận rồi thì khi đối diện với chứng khó như chàm thì bạn sẽ có phương pháp đối ứng hiệu quả.

Làm thế nào để giải toán hình học? nếu những công thức định lý cơ bản cũng không biết, thậm chí tổng ba góc trong một tam giác bằng 180 độ cũng không biết thì không có cách gì để suy luận cả. Cũng như chưa làm móng thì không thể xây nhà lầu được.

Hiện nay có nhiều học sinh rất thông minh, rất giỏi tìm tòi những suy luận của người khác, nhưng chỉ là kết quả của người khác. Không nên vui mừng vì thu được kiến thức của người khác, không nên dương dương tự đắc khi có được nhiều kinh nghiệm vốn có của người khác, cần phải hiểu được Trung y bắt buộc phải tự mình ngộ[12] ra vấn đề. Có phép tắc nào mà người học Trung y phải tuân thủ không? làm thế nào để ngộ? cần phải rèn luyện như thế nào? có công thức nào để trở thành hình mẫu cho mọi người học Trung y không? Chắc chắn là có. Cũng như mặt trời đem ánh sáng và nhiệt ban bố cho vạn vật, tạng tâm cung ứng năng lượng cho ngũ tạng lục phủ. Người làm y chân chính phải là người tu đạo, cần trở thành một mặt trời đỏ.

Hiện nay, sinh viên đại học mới ra trường chí khí mạnh mẽ, nhưng một khi đi lâm sàng thì nhụt chí ngay. Một khi nhụt chí thì niềm tin cho Trung y liền tiêu tan, một khi mất niềm tin thì giữa đường đứt gánh tự từ bỏ, người ta chỉ đâu đánh đó, kết quả là rất nhiều kiến thức không xâu chuỗi lại được, về cơ bản là không thể kết hợp được. Chẳng những kiến thức bản sơ sài mà còn thiếu tinh thần không ngừng tìm hiểu nghiên cứu.

Thầy tôi một mực cho rằng, người làm y chân chính phải là thiền giả, giác ngộ giả. Cũng như nghiền ngẫm một câu thoại đầu đến vỡ nát ra, y lý cũng phải ngộ thấu. Quá trình nghiền ngẫm lặp đi lặp lại không ngừng, như bò nhai lại cỏ, không ngại đọc những công thức định lý cả trăm lần, đọc thuộc nghĩ sâu đến thành .

Thơ cổ viết: Uyên ương tú thủ bằng quân khán, mặc bả kim châm độ dữ nhân[13].

Nghĩa là, khi đã thêu xong bức tranh uyên ương xinh đẹp rồi mới đưa cho người khác thưởng thức, nhưng tuyệt nhiên không truyền công phu thêu hoa (kim châm chi thuật) ra ngoài. Bây giờ thầy Dư, không những đem y án công bố, mà còn truyền hết những lối tư duy trị bệnh, truyền hết “kim châm chi thuật” quý báu của Trung y đã được tích luỹ và chứng nghiệm quan ngàn năm, chẳng giữ lại chút gì.

Nhưng hiện nay, rất nhiều người chỉ muốn dẫm một cái là thành. Họ đã quên mất một việc rất quan trọng, muốn nắm được chân lý luôn luôn là quá trình suy ngẫm lặp đi lặp lại, không thể đi một lần là đến. Đi một lần mà đến là ma pháp, không phải chính pháp, đó chỉ là cái lợi trước mắt mà thôi. Đường chính đạo luôn là bể dâu, là tích tụ của tinh hoa.

Do đó chúng tôi giới thiệu <Nhậm chi đường Y kinh tâm ngộ ký – nghiền ngẫm y kinh> với mục đích làm rõ Trung y nên khám bệnh như thế nào, ngộ bệnh thế nào, quá trình dùng công thức đã có để suy luận ra phương pháp điều trị ra sao. Nội dung tuy rời rạc, nhưng lại là những kết tinh từ việc nghiền ngẫm trên lâm sàng, hy vọng từ những nền tảng căn bản này mọi người có thể tiến thêm một bước cao hơn, nhảy xa hơn, xem rộng hơn, lĩnh ngộ sâu hơn, con đường tư duy rộng rãi hơn.

Tằng Bồi Kiệt   Trần Sáng Đào

Ngày 1 tháng 3 năm 2014


[1] 取像 thủ tượng, phương pháp nghiên cứu của triết học Trung Hoa cổ đại, mượn hình tượng trong tự nhiên để quy nạp chân lý, là lối tư duy thiên về trực giác, ngộ tính.

[2] 识文断字 biết chữ, chỉ người có một chút hiểu biết văn hóa.

[3] 穷理通变 thông hiểu lý lẽ nguồn gốc sự biến đổi của sự vật hiện tượng.

[4] 振 chấn: rung lắc, phấn khởi, hăng hái.

[5] 自依止,法依止,莫异依止

[6] Là câu nói của Aristoteles “Plato is dear to me, but dearer still is truth”. Aristoteles (384~322 BC) là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học, và được mệnh danh là “Cha đẻ của Khoa học chính trị”. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristoteles là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại. (wikipedia)

[7] 邪气束表 tà khí thúc biểu, tà khí bao bọc ở phần biểu – da lông bên ngoài cơ thể.

[8] Thanh dương (khí có tính nhẹ, trong sạch) đi lên các khiếu ở vùng đầu (tai mắt mũi miệng), trọc âm (khí có tính nặng, dơ) đi xuống các khiếu bên dưới (tiền âm, hậu âm), thanh dương phải được thăng lên trên, trọc âm phải được đưa xuống dưới.

[9] 中医之证 Trung y chi Chứng, Chứng trong Trung y. 证 chứng, chứng minh, bằng chứng.

[10] 难易相成 nan dị tương thành, khó và dễ chỉ là tương đối.

[11] 肺脉上亢 phế mạch thượng kháng, bộ thốn bên phải là mạch của phế, mạch bình hoà của phế thì mềm nhẹ như lông, mạch thượng kháng thì mạnh mà đẩy ngược lên tay người bắt.

[12]ngộ, chỉ sự “nhận thức”, “trực nhận”, “thấu hiểu xuyên suốt”. Nhận biết chân lý một cách trực tiếp mà không thông qua hệ thống tư tưởng, triết lý nào cả.

[13] 鸳鸯绣取凭君看,莫把金针度与人

Đặc điểm dùng thuốc bệnh liên quan đến Thận

Xưa có câu nói “Can vô hư chứng, Thận vô thực chứng”, nghĩa là nhắc đến tạng Thận chứng hư là nhiều, không có thực chứng; tạng Can phần nhiều là chứng thực, không có hư chứng. Câu nói này tuy không phải hoàn toàn chính xác, nhưng chỉ ra một thực tế chính xác : “tạng Thận đa phần là hư chứng”!

Để thông qua tạng Thận để học về Trung Dược, chúng ta phải tìm hiểu về tạng Thận trước. Thận là gốc của tiên thiên, chủ cốt, tàng tủy, tàng tinh; Thận chủ thủy, là tạng thủy; trong Thận tàng Thận hỏa, có thể ôn hóa hàn tủy, như thế thủy không trở nên lạnh…

Thông qua bệnh tạng Thận để học về trung dược, có thể từ 3 phương diện sau để bắt đầu, đó là Thận âm, Thận dương, Thận tinh. Như thế lại càng rõ ràng hơn! Continue reading

Đặc điểm dùng thuốc bệnh lý liên quan đến Vị

Nguồn: 余浩. 医间道. 北京. 中国中医药出版社,2011. 

Bệnh nhân sẽ thường xuyên nói: “Thầy thuốc ơi! Dạ dầy tôi đau, dạ dầy căng trướng, trào ngược dạ dầy, dạ dầy tôi không biết đói….”

Vị chính là một cơ quan tiêu hóa, Trung Y gọi Vị là “biển của thủy cốc”, ý rằng Vị là cơ quan thu nạp, nấu nhừ thủy cốc; vì đã là cơ quan thu nạp, ninh nhừ đồ ăn, nếu như không thể thu nạp, hoặc sau khi thu nạp lại không thể ninh nhừ, thì đó là bệnh, hoặc là ninh nhừ quá nhanh, đó cũng là bệnh.

Chúng ta hãy xem lại kim chỉ nam, Vị khí là đi xuống, Trung Y gọi là “Vị lấy giáng làm hòa”. Cũng có nghĩa rằng, Vị khí đi xuống là điều hòa, là thuận. Nếu như không giáng, vị khí nghịch lên trên, dịch vị sẽ theo đó trào ngược lên, ăn cơm không thấy ngon, thì sẽ sinh bệnh.

Cho nên chữa bệnh của vị rất đơn giản, mà từ khóa là một chữ “giáng”, chúng ta vừa cùng phân tích, vừa cùng học nào! Continue reading

Đặc điểm dùng thuốc bệnh lý liên quan đến tạng Can

Nguồn: 余浩. 医间道. 北京. 中国中医药出版社,2011:33 – 34. 

Để nghiên cứu về dùng thuốc cho các bệnh liên quan đến tạng Can, chúng ta phải xem lại chức năng tạng Can trước.

Can thuộc mộc, chủ sơ tiết, chủ tàng huyết, Can tàng hồn, là tạng chủ về cân nhắc mưu lược, khai khiếu ở mắt, Can chủ cân, nhuận ra ở móng, về tình chí là giận dữ, về âm thanh là tiếng hét tiếng động lớn, về dịch là nước mắt. Đó là những điều cơ bản và cũng không có gì để tranh luận cả, từ những thứ này để bắt đầu chắc chắn không sai, chắc chắn không có tình trạng mỗi người một ý, ai cũng cho mình là đúng. Continue reading

Tầm quan trọng của dược tính

Nguồn: 余浩. 医间道. 北京. 中国中医药出版社,2011

Dược tính có hàn nhiệt ôn lương, có thăng giáng phù trầm, không hiểu rõ về dược tính của dược vật, lúc kê phương chỉ dựa vào tác dụng của một vị thuốc mà cho vào, thì sẽ khó mà đạt được hiệu quả. Trong phần trước của chương này có nhắc đến dùng Tỏi, chính là dựa vào tính năng có thể dẫn khí huyết đi xuống. Khí huyết đi xuống rồi, bệnh sẽ đỡ. Dược học hiện đại khi nghiên cứu về dược vật, ưa thích từ các thành phần của dược vật mà tiến hành nghiên cứu, trong tỏi có chứa dịch chiết tỏi, có thể kháng khuẩn tiêu viêm, có thể làm mềm mạch máu, thậm chí có thể chống ung thư, nhưng không có cách nào nghiên cứu làm sao Tỏi có thể dẫn khí huyết đi xuống, vậy tại sao? Đây là đặc tính riêng vốn có của bản thân dược vật! Continue reading

TỪ TRỒNG TRỌT ĐỂ XEM LẠI CÁCH CHỮA BỆNH CAN

Nguồn: 曾培杰,陈创涛. 任之堂医经心悟记. 北京,中国中医药出版社,2014:63-65.

Hoàng Đế Nội kinh viết: “Mộc uất đạt chi[木郁达之][1]”.

Tứ thánh tâm nguyên viết: “Mộc sinh vu thủy, thủy noãn mộc vinh, sinh phát nhi bất uất tắc[木生于水,水暖木荣,生发而不郁塞][2]

Mộc sinh ở thủy mà thành nhờ thổ, thích điều đạt mà ghét uất ức. Điều trị bệnh của Can Mộc, cần phải học cách trồng cây làm ruộng. Nông dân trồng cây làm ruộng đòi hỏi phải làm tơi đất bón phân tưới nước, cho đến nhổ cỏ dại. Thầy thuốc điều can, kiện vận Tỳ Vị cũng chính là làm tơi đất, tư dưỡng Can Thận chính là tưới nước bón phân, sơ Can lợi Đởm chính là hỗ trợ hoa màu sinh trưởng, trừ diệt cỏ dại. Continue reading

TỪ ÁNH NẮNG VÀ MÂY ĐEN NGỘ THÔNG VỀ PHÉP GIÁNG

Nguồn: 曾培杰,陈创涛. 任之堂医经心悟记. 北京,中国中医药出版社,2014:153 – 155.

Trong sách Y thuật có viết: “Người dựa vào Vị khí để sống, thuốc dựa vào Vị khí để vận chuyển”.

Cổ nhân nói: “Vị lấy giáng làm hòa”.

Túc Dương Minh Vị là kinh đa khí đa huyết, Vị Tràng dựa vào thông giáng làm bổ. Trên là dương, dưới là âm, Dương Minh Vị kinh một khi thông giáng, âm dương trên dưới tự nhiên mà đối lưu. Continue reading

KINH MẠCH VÀ TẠNG PHỦ

Nguồn: 曾培杰,陈创涛. 任之堂医经心悟记. 北京,中国中医药出版社,2014:126 – 127.

Hoàng Đế Nội Kinh có viết: “Kinh mạch giả, sở dĩ có thể quyết sinh tử, xử lý trăm bệnh, điều hòa hư thực, không thể không thông[经脉者,所以能决死生,处百病,调虚实,不可不通]”.

Lại viết: “Mạch Túc thiếu dương đởm, đi qua ngực, qua sườn.[胆足少阳之脉…循胸,过季肋]”

Có một ông lão, 76 tuổi, ngực sườn bên phải đau âm ỉ tái phát nhiều lần đã nhiều năm nay, vài ngày gần đây nặng thêm.

Thầy tôi nói, đó là nơi kinh Đởm đi qua, mạch Quan bên trái huyền khẩn, có phải có sỏi túi mật hoặc viêm túi mật không?

Ông lão gật đầu, nói đúng vậy.

Thầy tôi nói, giờ là mùa thu, khí hướng xuống dưới mà thu về, bệnh nhân vốn thể trạng đàm trọc, các đường ống dễ bị tắc nghẹn, không thông thì đau. Bệnh nhân này kinh mạch trên cơ thể giống như đường cao tốc vậy, duy trì trạng thái vô cùng thông suốt, chỉ cần có chút tắc lại, người sẽ khó chịu. Continue reading

Ôn bệnh tâm đắc (Triệu Thiệu Cầm)

Nguồn: 赵绍琴著.赵绍琴温病讲座.学苑出版社.北京,2015, 2-4.

ÔN BỆNH TÂM ĐẮC: BÀI GIẢNG 1

Đoạn thứ nhất: “Ôn nhiệt bệnh là do ôn tà từ miệng mũi mà vào, khí ở mũi thông với phế, qua miệng hầu mà tới, tà không phải từ bì mao mà nhiễm vào. Cho nên ôn bệnh mới phát tất có họng đỏ mà sưng, miệng khô lưỡi đỏ, ho khan, thậm chí có đờm, hoặc tức ngực mà suyễn, bắt đầu ở thượng tiêu, tuy có hàn nhiệt, nhưng không phải biểu chứng, mà nói rằng ở vệ. [温热病乃温邪自口鼻而入,鼻气通于肺,经口咽而至,非邪从皮毛所感受。故温病初起必咽红而肿,口干舌红,咳嗽,甚则有痰,或胸痛而喘,始在上焦,虽有寒热,却非表证,故曰在卫]” Continue reading

Kinh nghiệm điều trị THA của Triệu Thiệu Cầm

Nguồn: 李刘坤编著.赵绍琴医案实录.人民军医出版社.北京,2015:39 – 41.

1. Bệnh án 1

Bệnh nhân nữ họ Trương, 56 tuổi.

Khám lần 1: 11 – 3 – 1981. Có THA đã nhiều năm, mỗi ngày đều uống thuốc Tây để hạ áp, huyết áp cao thấp không ổn định, thường xuyên đầu nặng như trì, thậm chí đau căng, ngực bụng trướng tức, đại tiện nát không dễ chịu, mạch nhu hoạt mà sác, chất lưỡi đỏ mà bệu to, rêu lưỡi trắng nhớt mà dầy.

Trị pháp: dùng mùi hương để hóa thấp tà, khổ hàn để táo trung tiêu, tán khí để giảm đầy tức.

Phương: Bội Lan[1] (cho sau) 10g, Hoắc Hương (cho sau) 10g, Bạc Hà (cho sau) 3g, Thảo Đậu Khấu 3g, Bán Hạ 10g, Trần Bì 6g, Mộc Hương 6g, Đại Phúc Bì 10g, phiến Khương Hoàng 6g. Tất cả 6 thang, mỗi ngày 1 thang, sắc lấy nước, mỗi ngày chia 2 lần sáng tối, uống lúc đói. Continue reading